Chap 14 : Mở “ Ô Mã Quan “.
Đã cuối giờ Tuất, sắp sang đến giờ Hợi mà vẫn chưa thấy A Thiện cùng những người khác quay lại. Lâm tiên sinh đứng ngồi không yên, trên bờ sông lúc này chỉ còn 3 người là thầy Lương, La đại phu và Lâm tiên sinh…..Lão Trịnh sau khi tiểu Nguyệt tỉnh lại thì cả 2 ông cháu được thầy Lương khuyên nên trở về nhà. Bởi hiện tại nguyên thần của cô bé vẫn chưa ổn định sau khi bị âm hồn bên trong quan tài nhập vào thân xác, tiếp nữa trời về khuya càng lúc càng lạnh, nếu cả lão Trịnh và tiểu Nguyệt còn nán lại đây sẽ dễ bị cảm. Và điều cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất chính là thầy Lương không muốn để tiểu Nguyệt nhìn thấy những thứ sẽ khiến con bé ám ảnh đến kinh sợ bên trong chiếc quan tài màu đen này.
Đi đi lại lại, trông trông ngóng ngóng, Lâm tiên sinh phàn nàn :
– Sao đi lâu thế ? Không biết phải đợi đến lúc nào đây ?
Thầy Lương nãy giờ vẫn giữ thái độ điềm tĩnh, trong lúc chờ đợi A Thiện cùng mọi người đem vật dụng cần thiết đến, thầy Lương soi đèn xem thật kỹ từng góc cạnh, từng tấm ván của “ Ô Mã Quan “. Nếu như không có lỗ hổng ở góc quan tài thì âm hồn cô bé gái được chôn cùng mẹ sẽ không thể thoát ra theo đôi hài đỏ trôi trên sông mà lão Ngũ vớt được chiều hôm nay.
Dựa vào những dấu vết trên chiếc quan tài, thầy Lương đã phần nào xâu chuỗi được toàn bộ sự việc……Nhưng trước khi đi đến kết luận cuối cùng thì cần phải mở “ Ô Mã Quan”. Nói thầy Lương không vội cũng không đúng, sắp sang giờ Hợi, có nghĩa là cũng chỉ còn chừng 3 tiếng nữa sẽ tới nửa đêm, cũng là lúc “Nguyệt Khai “ bung nở. Bỏ qua cơ hội lần này sẽ phải đợi thêm 1 năm nữa……Một năm không phải quá dài, nhưng cũng không phải quãng thời gian ngắn, nhất là trong hoàn cảnh của thầy Lương.
Thế nhưng, việc siêu độ, cứu rỗi linh hồn người chết vẫn phải được đặt lên hàng đầu…..Chưa kể đến, kẻ sử dụng “ Ô Mã Quan “ là kẻ có tâm địa dã man, tàn độc……Thầy Lương lo sợ không biết liệu rằng chỉ có 1 “ Ô Mã Quan “ hay còn nhiều “ Ô Mã Quan “ khác được chôn ở đâu đó mà chưa ai phát hiện ra.
“ Ta ở sông Châu Giang này đã 50 năm….Kể từ khi Khúc Quân qua đời, nơi đây bắt đầu có sự biến đổi “
Nhớ lại câu nói của “Đạo Ngư” trước khi nó biến mất, thầy Lương tự nhủ :
– Chẳng lẽ điều khiến cho bản thân ta bứt rứt, bất an suốt quãng thời gian qua lại chính là bắt nguồn từ chuyện này. Lời của “Đạo Ngư” chứa nhiều ẩn ý, đành phải tìm hiểu cặn kẽ từng vấn đề vậy.
– Thầy Lương, uống ngụm nước đi….- Đưa hồ lô đựng nước cho thầy Lương, La đại phu nói.
Nhấp ngụm nước, thầy Lương đáp :
– Cảm ơn La đại phu, cũng muộn rồi….La đại phu đi thế này có sợ ở nhà phu nhân cùng tiểu Long lo lắng hay không ?
La đại phu cười trả lời :
– Thầy Lương yên tâm, có những đêm đang ngủ mà người ta đến gọi đi thăm bệnh tôi cũng phải lập tức đi ngay. Đi đến sáng hôm sau mới về, ban đầu vợ cùng các con cũng thấp thỏm chờ đợi, sau dần cũng quen. Mình làm nghề thầy thuốc, được bà con phong cho 2 chữ đại phu thì phải tận tâm với nghề, được cái gia đình tôi ai cũng hiểu và ủng hộ. Chữa được bệnh, cứu được người chính là điều phúc đức nhất…..Hơn nữa, từ nhỏ tới giờ, hôm nay mới được tận mắt chứng kiến bao nhiêu là chuyện lạ lùng, thú thật với thầy, tôi cũng muốn ở lại xem tới cuối cùng.
Thầy Lương gật đầu :
– La đại phu là người có tâm, lát nữa hãy cố gắng vượt qua nỗi sợ mà xem cho thật kỹ…..Đây cũng là 1 kinh nghiệm quý báu cho La đại phu sau này.
– Cảm ơn thầy Lương, tôi hiểu rồi….- La đại phu khẽ cúi đầu đáp.
– Kia rồi, đến rồi……Cuối cùng thì cũng đến. – Lâm tiên sinh nói lớn, tay chỉ về phía trước mặt nơi thấp thoáng những ngọn đuốc đang ngày một tiến lại gần hơn. Cả tiếng xe bò, tiếng người bước chân, chạy hối hả.
“ Lịch…kịch….lịch…kịch “
– Dừng….dừng lại……Tạm thời để mọi thứ ở đây…- A Thiện giơ tay nói với những người ở phía sau.
Hạ càng xe bò, A Thiện chạy tới, vừa thở vừa nói :
– Hộc…hộc…..Lâm tiên sinh, thầy Lương, La đại phu…..Tôi….đem đồ đến…rồi đây….
Thầy Lương cảm ơn A Thiện rồi cùng mọi người chuyển những đồ dùng cần thiết tới khoảng đất bằng phẳng cách quan tài vài bước chân.
Thầy Lương nói :
– Trải chiếc chiếu ở đây, nhẹ tay thôi, đặt bộ tiểu quách ở chính giữa, xung quanh xếp kim trang, tiền vàng, quần áo giấy, đá sỏi…….A Thiện, có đem theo nước suối từ Núi Bạch Hạc chứ ?
A Thiện đáp :
– Dạ..dạ có…..Cái đó quan trọng làm sao có thể quên được….Bởi vì thầy nói cần rất nhiều nước nên chúng tôi chở nguyên 1 xe bò đựng tận 10 thùng nước đến đây. Trên đường đi sợ đổ sánh ra hết nên đẩy xe hơi chậm. Thành thử ra giờ họ mới tới….
A Thiên hẩy tay ra hiệu mọi người bê nước vào cho thầy Lương……Thầy Lương nói để số nước ấy bên cạnh quan tài, lát nữa sẽ dùng nước suối của Bạch Hạc Sơn rửa xương cốt người chết. Thông thường người ta sẽ dùng rượu nấu chung với gừng, hoặc có loại nước thơm nấu bằng thảo mộc để rửa xương. Thế nhưng lần này thầy Lương sử dụng nước nóng chảy từ con suối bắt nguồn từ Bạch Hạc Sơn, lý do là bởi vì người chết bên trong “ Ô Mã Quan “ không giống như người được cải táng bình thường. Nếu chỉ dùng rượu hay nước thơm, chắc chắn không thể thanh tẩy hài cốt.
Cần phải có 1 loại nước mang linh khí của đất trời, may mắn thay Bạch Hạc Sơn là nơi quy tụ linh khí, nước suối của núi Bạch Hạc cũng mang linh lực có tính kỵ tà, rất phù hợp khi dùng rửa xương cốt bên trong “ Ô Mã Quan “.
A Thiện đem tới 1 bộ đục, sốt sắng A Thiện hỏi :
– Thầy Lương, bây giờ là phải đục để cậy nắp quan tài này ra phải không ? Thầy để tôi làm cho….
Thầy Lương đưa tay ngăn A Thiện :
– Khoan đã, loại quan tài này không thể đục phá bằng cách thông thường……Chúng ta sẽ dùng đến thứ này nhưng chưa phải bây giờ. Đừng nóng vội, sau khi sắp xếp đồ đạc xong xuôi, tôi sẽ tự tay mình gỡ bỏ bùa chú của “ Ô Mã Quan “.
Thầy Lương nói với La đại phu :
– Cảm phiền La đại phu chuẩn bị cho tôi ít giấy, mài cho tôi chút mực…..Giống như lúc chúng ta ở nhà lão Ngũ.
La đại phu vâng dạ rồi lập tức làm theo, nhìn bộ tiểu quách, nhìn tất cả những vật dụng cần thiết cho việc cải táng đã được sắp xếp đâu ra đó. Chờ La đại phu mài mực xong, thầy Lương nói mọi người lùi xa ra khỏi quan tài, tiếp tục nhỏ máu của mình vào nghiên mực, ngồi xếp bằng ở phần đầu quan tài, thầy Lương trải ra đất 5 tờ giấy. Chấp bút, thầy Lương bắt đầu viết vào từng tờ giấy lần lượt theo thứ tự :
木帝 ( Mộc Đế )
土帝 ( Thổ Đế )
金帝 (Kim Đế )
水帝 ( Thủy Đế )
火帝 ( Hỏa Đế )
Thầy Lương sử dụng đạo bùa “ Ngũ Đế “ để gỡ bỏ ấn chú của “ Ô Mã Quan”. Lần lượt từng lá bùa tương ứng với 1 vị đế vương trong thuyết “ Tam Hoàng – Ngũ Đế “ ( ở đây chỉ sử dụng Ngũ Đế tương ứng với 5 yếu tố trong Ngũ Hành ) dán vào từng vị trí của 5 bức tượng ngựa ô.
Bùa giải ấn được dán xong, tất cả những người có mặt chứng kiến lúc ấy ai cũng nín thở chờ đợi……Đứng trước “ Ô Mã Quan “, thầy Lương chụm hai ngón tay lại, nắm bàn tay phải đặt trên nắm bàn tay trái, nhắm mắt, miệng đọc khẩu quyết……Sau khi đọc xong, thầy Lương dùng 2 ngón tay vẽ vào khoảng không trước mặt 1 chữ “ Ngự “
Giữa khoảng không, chữ “ Ngự “ xuất hiện mang sắc hoàng kim, rồi ngay sau đó ánh sáng từ chữ tỏa ra phân tách đến vị trí của 5 lá bùa.
Cùng lúc cả 5 lá bùa bốc cháy, ngọn lửa thiêu đốt 5 bức tượng ngựa ô, từ trong ngọn lửa bùng cháy xuất hiện 5 đường chỉ đỏ liên kết 5 bức tượng với quan tài…….Chính là thời điểm này, thầy Lương tay cầm dao bạc, tiến tới từng vị trí, thầy Lương dùng dao cắt đứt đường chỉ đỏ.
Cắt xong cả 5 đường cũng là lúc 5 bức tượng ngựa ô cháy thành tro bụi………Thu dao bạc, thầy Lương gõ vào nắp quan tài 5 lần :
“ Cộc…Cộc…Cộc…Cộc…Cộc “
Quay lại nhìn A Thiện, thầy Lương gật đầu nói :
– Được rồi, mở nắp quan tài ra…